Courageous (lớp tàu chiến-tuần dương)
Courageous (lớp tàu chiến-tuần dương)

Courageous (lớp tàu chiến-tuần dương)

list error: <br /> list (help)
4 × pháo BL 15 inch (381 mm) Mark I (2×2);
18 × pháo BL 4 inch (102 mm) Mark IX (6×3);
2 × pháo QF 3 inch (76 mm) phòng không (2×1);
list error: <br /> list (help)
đai giáp: 2–3 in (51–76 mm);
sàn tàu: 0,75–3 in (19–76 mm);
tháp pháo: 7–9 in (178–229 mm);
bệ tháp pháo: 3–7 in (76–178 mm);
tháp chỉ huy: 10 in (254 mm);
Lớp tàu chiến-tuần dương Courageous bao gồm ba chiếc tàu chiến-tuần dương được biết đến như là những "tàu tuần dương hạng nhẹ lớn" được chế tạo cho Hải quân Hoàng gia Anh Quốc. Trên danh nghĩa được thiết kế cho Dự án Baltic của Đô đốc Lord John Fisher, vốn dự định hỗ trợ cho việc đổ bộ lực lượng lên bờ biển Baltic của Đức. Những chiếc thuộc lớp này sẽ rất nhanh nhưng có vỏ giáp mỏng và chỉ mang vài khẩu pháo hạng nặng, có tầm nước rất cạn cho phép hoạt động tại vùng nước nông của biển Baltic, đồng thời cũng phản ảnh những kinh nghiệm có được trong chiến tranh trước đó. Để có tốc độ tối đa, lớp Courageous là những tàu chiến chủ lực đầu tiên của Hải quân Hoàng gia sử dụng turbine hơi nướcnồi hơi ống nước nhỏ.Hai chiếc đầu tiên trong lớp CourageousGlorious được đưa ra hoạt động vào năm 1917 và trải qua thời gian còn lại của Chiến tranh Thế giới thứ nhất tuần tra tại Bắc Hải. Chúng tham gia trận Heligoland Bight thứ hai vào tháng 11 năm 1917 và đã có mặt khi Hạm đội Biển khơi Đức đầu hàng một năm sau đó. Con tàu nữa chị em Furious được thiết kế với một cặp pháo 18 inch (457 mm), cỡ nòng pháo lớn nhất từng được trang bị cho tàu chiến của Hải quân Hoàng gia, nhưng được cải biến trong khi chế tạo để có một sàn cất cánh và hầm chứa máy bay thay cho tháp pháohầm đạn trước mũi. Sau vài chuyến tuần tra tại Bắc Hải, tháp pháo phía sau cũng được tháo dỡ, bổ sung thêm một sàn cất-hạ cánh. Máy bay của nó đã thực hiện cuộc không kích Tondern vào tháng 7 năm 1918 khi những máy bay Sopwith Camel tấn công bãi đậu khí cầu ZeppelinTondern.Cả ba chiếc đều được cho ngừng hoạt động sau khi chiến tranh kết thúc, rồi được tái cấu trúc thành những tàu sân bay vào những năm 1920. Courageous và Glorious bị đánh chìm vào đầu Chiến tranh Thế giới thứ hai, còn Furious sống sót qua cuộc chiến tranh và bị tháo dỡ vào năm 1948.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Courageous (lớp tàu chiến-tuần dương) http://www.navweaps.com/Weapons/WNBR_15-42_mk1.htm http://www.navweaps.com/Weapons/WNBR_18-40_mk1.htm http://www.navweaps.com/Weapons/WNBR_3-45_mk1.htm http://www.navweaps.com/Weapons/WNBR_4-45_mk9.htm http://www.navweaps.com/Weapons/WNBR_55-50_mk1.htm http://dreadnoughtproject.org/tfs/index.php/Courag... http://www.gwpda.org/naval/opzz.htm //www.worldcat.org/oclc/10154565 //www.worldcat.org/oclc/12119866 http://www.battleships-cruisers.co.uk/courageous_c...